Tứ quan chủ trị Ngũ tạng

Trong “Linh khu Cửu châm thập nhị nguyên thứ nhất”, có ghi (ngũ tạng có lục phủ, lục phủ có 12 huyệt nguyên, 12 huyệt nguyên xuất ở Tứ quan, Tứ quan chủ trị bệnh ngũ tạng). “Ngũ tạng hữu lục phủ, lục phủ hữu thập nhị nguyên, thập nhị nguyên xuất vu tứ quan, tứ quan chủ trị ngũ tạng” ý nói là khi ngũ tạng có bệnh thì dùng “Tứ quan” để điều trị. Vấn đề ở đây “Tứ quan” nghĩa là gì? là bộ phận nào hay là huyệt nào trên cơ thể con người?

Chúng ta để ý câu “Thập nhị nguyên xuất ở tứ quan” tức là 12 huyệt nguyên xuất ở tứ quan – Điều này cho thấy “tứ quan” là chỉ bộ phận trên cơ thể con người chứ không phải là huyệt vị.

12 huyệt nguyên xuất ở tứ quan chúng bao gồm: 2 huyệt Thái uyên, 2 huyệt Đại lăng, 2 huyệt Thái xung, 2 huyệt Thái bạch, 2 huyệt Thái khê (là huyệt nguyên của ngũ tạng: phế, tâm, can, tỳ, thận) cùng với huyệt Cưu vỹ và Khí hải trên mạch Nhâm – Tổng cộng là 12 huyệt. Trong đó 10 huyệt nguyên của Ngũ tạng đều nằm gần 2 bên khớp cổ tay và cổ chân còn huyệt Cưu vỹ và Khí hải thì nằm gần vị trí Hoành cách và Thần khuyết (rốn). Như vậy, 12 huyệt nguyên xuất ở 4 bộ phận gần khớp cổ tay, cổ chân, hoành cách và rốn. Từ đó chúng ta hiểu được “Tứ quan” là chỉ 4 bộ phận gồm cổ tay, cổ chân, hoành cách và rốn.

Một vấn đề nữa được đặt ra là tại sao 4 bộ phận đó lại được gọi “quan”? “Quan “ở đây là chỉ cơ quan, khu vực, quan tiết (khớp), hoặc những đoạn chuyển tiếp trong cơ thể con người; phần cổ tay, cổ chân đó là phần khớp (quan tiết), còn phần hoành cách và rốn là phần chuyển tiếp (tiếp nối) của Tam tiêu (Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu) do vậy chúng được gọi là “quan”. Phía trên Hoành cách là Thượng tiêu có Tâm, Phế; Dưới hoành cách đến trên rốn là Trung tiêu có tỳ, vị, can, đởm; Dưới rốn là Hạ tiêu có thận, bàng quang, đại tràng, tiểu tràng.

Theo nguyên lý điều trị bệnh của Ngũ tạng là khi một tạng nào đó bị bệnh thì ta sẽ lấy Huyệt nguyên của tạng đó để điều trị

Ví dụ: Bệnh tại tạng Tâm lấy huyệt Đại lăng (với ý nghĩa Tâm bào thay Quân chủ thu tà). Bệnh tại Phế dùng huyệt Thái uyên. Bênh tại Tỳ dùng huyệt Thái bạch. Bệnh tại Can lấy huyệt Thái xung. Bệnh tại Thận dùng huyệt Thái khê.

Còn các tạng phủ thuộc Thượng tiêu, Trung tiêu bị bệnh (tâm, phế, tỳ, vị, can, đởm) thì ta dùng huyệt Cưu vỹ để điều trị; Các tạng phủ thuộc Trung tiêu và Hạ tiêu bị bệnh (tỳ, vị, can, đởm, thận, bàng quang, đại trường, tiểu trường) thì ta dùng huyệt Khí hải để điều trị. Đó chính là hàm ý mà người xưa nói về “Tứ quan chủ trị Ngũ tạng”.

ThS Đào Hữu Minh – Trưởng Khoa Khám bệnh