Người làm về châm cứu điều hiểu rằng Ngũ tạng, Lục phủ có quan hệ mật thiết với huyệt du huyệt mộ và huyệt nguyên. Ngoài các huyệt trên thì Ngũ tạng, Lục phủ còn có liên hệ rất mật thiết với Hạ hợp huyệt. Về quy luật dùng huyệt trong điều trị các chứng bệnh của tạng phủ có mấy điểm đáng chú ý như sau:
1. Quy luật dùng huyệt trong điều trị bệnh của ngũ tạng
Trong việc dùng huyệt điều trị bệnh của ngũ tạng thì huyệt được ưu tiên chọn dùng lần lượt theo thứ tự là: Huyệt Du phía sau lưng, hoặc huyệt Nguyên, sau đó có thể chọn dùng đến huyệt Mộ. Các huyệt trên có thể dùng đơn độc hoặc cũng có thể phối hợp để dùng. Ngoài ra nếu Tà bế Ngũ tạng, xuất hiện tình trạng hôn mê thì lúc đó sẽ dùng châm chích nặn máu ở huyệt Tỉnh; Còn để thông điều dương khí của ngũ tạng thì ta dùng huyệt Huỳnh.
Ví dụ: Tạng Phế có bệnh ta có thể dùng huyệt Phế du, Thái Uyên, Trung phủ để điều trị. Tạng Can có bệnh ta chọn dùng Can du, Thái xung, Kỳ môn; Tạng Tỷ có bệnh ta dùng Tỳ dự, Thái bạch, Chương môn; Tạng Thận có bệnh thì dùng Thận due, Thái khê, Kinh môn; Tạng Tâm có bệnh chọn dùng Quyết âm du, Đản trung, Đại lăng. Ở đây có câu hỏi được đặt ra là: Khi Tạng Tâm có bệnh thì ta có thể dùng huyệt Du, Mộ của Tâm bào để điều trị được hay không? Trong ” Linh khu tà khách thiên 71″ có viết ” Nếu tà khí tại Tâm thì cũng có ở Tâm bào” vì Tâm bào là phần bao bên ngoài của Tâm, do vậy nó cũng chịu sự tác động của tà khí khi phạm vào Tâm, nên khi tà khí xâm phạm vào Tâm thì có thể dùng các huyệt của Tâm bào để điều trị. Nếu bản thân tạng tâm bị bệnh thì phải chữa vào tâm, lúc đó chúng ta chọn dùng các huyệt: Tâm du, Cự khuyết, Thần môn.
Ngoài ra căn cứ vào lý luận khai khiếu của Ngũ tạng, bệnh trạng của Ngũ quan cửu khiếu mà ta có thể dùng các phương huyệt điều trị cho phù hợp.
2. Quy luật dùng huyệt trong điều trị bệnh của lục phủ
Với các chứng bệnh của lục phủ thì việc dùng huyệt để điều trị được chọn dùng theo thứ tự ưu tiên là: Hạ hợp huyệt, huyệt mộ, huyệt du.
“Tố vấn kỳ bệnh luận” viết về bệnh của Đởm gây đắng miệng và cách điều trị như sau:
“Hoàng đế hỏi:
– Có bệnh đắng miệng, lấy Dương lăng tuyền; đắng miệng bệnh danh là gì? Cách chữa ra sao?
Kỳ bá đáp:
– Bệnh danh viết Đởm đan…do Đởm hư, khí thượng nghịch làm miệng đắng, điều trị thì lấy huyệt Mộ, Du của Đởm… Có thế lấy Hạ hợp huyệt của Đởm là Dương lăng tuyền hoặc huyệt mộ của Đởm là Nhật Nguyệt, hoặc huyệt Du của Đởm là Đởm du để điều trị”.
Để điều trị bệnh của Vị (Đau dạ dày, nôn, trào ngược dạ dày thực quản…,) ta có thể chọn dùng các huyệt: Túc tam y, Trung quản, Vị du.
Hoặc các bệnh của Đại trường (Đau bụng, ỉa chảy, đại tiện bí…) chúng ta có thể dùng các huyệt: Hạ cự hư, Thiên khu, Đại trường du.
Các bệnh của Bàng quang (Bí đái, di niệu, đái buốt…) thì chọn dùng các huyệt: Ủy trung, Trung cực, Bàng quang du.
Ngoài ra khi điều trị các chứng bệnh cấp tính của Lục phủ, Ngũ tạng thì huyệt Khích là huyệt được chọn để dùng.
ThS.BS. Đào Hữu Minh – Trưởng Khoa Khám bệnh

