III. Tính chất và đặc điểm dẫn bệnh đau của thử tà
Thử thuộc dương tà, là chủ khí của mùa hè, tính viêm nhiệt, đi lên. Đau đớn mang tính chất đau nóng, râm ran, thương đau, sưng, đỏ, gặp nóng thì đau tăng; người bệnh hay có các biểu hiện như sốt cao, tâm phiền, mặt đỏ, đau đầu.
- Thử tà thương tân dịch, hao khí, làm cho tổ chức mất tính nhu nhuận, đau đớn nặng nề, nhức mỏi. Thử thuộc dương tà, chủ thăng phát, trực tiếp nhập khí vận làm lỗ chân lông khai tiết nhiều mồ hôi, nhiễu tâm thần, gây ra tâm phiền, bất an, đoản khí mệt mỏi, toàn thân đau nhức, thậm chí ngất không biết gì.
- Thử tà hay đi kèm với thấp gây bệnh, vì vậy đau hay có tính chất nặng nề, khó chịu và phiền táo.
IV. Tính chất và đặc điểm dẫn bệnh đau của thấp tà
Thấp chủ khí của trưởng hạ. Thấp tà gây ra bệnh gồm có ngoại thấp và nội thấp.
+ Ngoại thấp phần lớn do khí hậu ẩm ướt, mưa nhiều, nơi ở ẩm thấp hoặc do ngoại thấp xâm nhập cơ thể gây bệnh.
+ Nội thấp do tỳ mất kiện vận, thủy thấp đình trệ ở trong mà hình thành.
Ngoại thấp và nội thấp trong quá trình phát bệnh có thể cùng nhau sinh ra và có ảnh hưởng đến nhau. Nếu do ngoại thấp, thấp khốn tỳ dương dẫn đến tỳ thất kiện vận tạo thành thấp trọc nội sinh, tỳ dương hư tổn, thủy thấp bất hóa.
- Thấp tính trọng trọc, ni trệ; tính chất đau kéo dài, biểu hiện đau thường đau nặng đầu, tức ngực, toàn thân nặng nề.
– Thấp tà ngoại nhập cơ biểu làm cho thanh dương không thăng, dinh vệ bất hòa, người bệnh có cảm giác đau đầu, đau nặng như búa bổ.
– Thấp tà lưu trệ ở kinh lạc, các khớp làm các cơ không cảm nhận được cảm giác, các khớp đau kéo dài, đau có tính chất nặng nề.
– Nếu thấp lưu trệ ở trường vị, hạ tiêu thì người bệnh có các biểu hiện: đại tiện lỏng, nát hoặc nhão nhầy, có máu, mủ; bạch đới nhiều. Nếu thấp lưu trệ ở cơ biểu thì có ban chẩn, tính chất đau âm thầm, nặng nề; bệnh hay kéo dài, lâu khỏi, dễ mắc lại.
- Thấp thuộc âm tà, làm trở trệ khí cơ, tổn thương dương khí, đau có tính chất trướng mãn, không thoải mái. Khi thấp lưu trệ ở kinh lạc, tạng phủ làm cho khí cơ thăng giáng thất thường, ngực, bụng đầy, đau, đại tiện không thoải mái, tiểu tiện không thông lợi.
- Thấp tính đi xuống, đau hay phát ở phần dưới của cơ thể. Thấp tà thuộc âm, tính trọng trọc, lưu hạ, dễ xâm nhập hạ tiêu và chi dưới.
V. Tính chất và đặc điểm dẫn bệnh của táo tà
Táo chủ khí của mùa thu, tính khô sáp; tính chất gây đau là dễ làm tổn thương tân dịch, làm âm dịch hao tổn, miệng, mũi, họng khô đau, da khô, thậm chí nứt nẻ.
Táo tà dễ xâm phạm vào phế gây ho khan, ít đờm hoặc đờm dính, khó khạc, ngực đau như châm chích.
Táo tà gây bệnh đau nhiều nhất là thuộc về phế, phế khí hư dẫn đến khí huyết vận hành động lực bất túc; táo tà thương âm, mạch đạo thất nhu nhuận làm cho khí huyết trở trệ, mắt, mũi, miệng khô, ít dịch, sinh ra lở loét.
VI. Tính chất và đặc điểm dẫn bệnh đau của hỏa tà
- Hỏa tà ở ngoài hay trực tiếp do cảm thụ ôn nhiệt tà khí mà gây bệnh; nội thì do tạng phủ, âm dương, khí huyết thất điều, làm cho dương khí quá sung thịnh mà gây bệnh.
- Hoặc cảm thụ phong, hàn, thử, thấp, táo… ngoại tà và ngũ chí quá cực trên nền cơ thể dương thịnh hoặc chữa trị bệnh không đúng cũng có thể hóa hỏa.
- Hỏa nhiệt thuộc dương tà, có tính chất viêm thượng, đau có tính chất trướng nóng, sưng đỏ, cự án, người có thể sốt cao, phiền khát, ra mồ hôi, đau đầu, tâm phiền, mất ngủ, có thể thao cuồng hoặc hôn mê. Nếu hỏa nhiệt tà lưu trệ ở các khớp thì dẫn đến chứng nhiệt tý (khớp sưng nóng, đỏ, đau).
- Hỏa tà dễ thương tân dịch, đau hay kèm với tổn thương tân dịch: Người bệnh có cảm giác miệng họng khô khát, thích uống nước lạnh, tiểu tiện vàng, ngắn, đại tiện táo kết.
- Hỏa dễ động huyết sinh phong, đau kèm theo kinh quyết, huyết chứng.Ôn nhiệt nhập cơ thể hoặc cơ thể dương khí thịnh, can thận âm hư, nhiệt cực sinh phong dẫn đến kinh quyết, co giật, sốt cao, hôn mê, tứ chi co cứng, cổ gáy cứng đau; hỏa có thể bức huyết vong hành, thổ huyết, đại tiểu tiện ra máu hoặc băng lậu.
ThS.BS. Đào Hữu Minh – Trưởng khoa Khám bệnh