Kinh thủ thái âm phê khởi đầu từ huyệt trung phủ hay vân môn?

Đường tuần hành khí huyết của 12 kinh mạch chính bắt đầu từ kinh thủ thái âm phế đến kinh dương minh đại trường… và được kết thúc ở kinh túc quyết âm can. Trong các sách giáo khoa mà chúng ta được học hiện nay thì đường đi của kinh thủ thái âm phế được mô tả như sau: Thủ thái âm phế kinh khởi đầu từ trung tiêu, đi xuống liên lạc với đại trường, quay lên vị khẩu, đi lên qua hoành cách mô thuộc vào phế; lại theo khí quản đi ngang ra dưới hố nách, men theo cánh tay để đi xuống… rồi tiếp hợp với kinh thủ dương minh đại trường. Huyệt đầu tiên (số 1) của kinh phế được ghi là huyệt trung phủ, tiếp đó là huyệt vân môn…

Ở đây chúng ta thử bàn xem huyệt khởi đầu của kinh thủ thái âm là huyệt vân môn hay là huyệt trung phủ? Trong các y văn như (Tố vấn. Thủy nhiệt huyệt luận), (Châm cứu giáp ất kinh) có ghi vân môn là huyệt khởi đầu của thủ thái âm phế kinh. Trong (Châm cứu giáp ất kinh) ghi trung phủ là huyệt thứ 2 của kinh phế. Đến đời Đường các sách (Thiên kim phương), (Ngoại đài bí yếu)…cũng vẫn đều ghi chép như vậy. Chỉ đến đời Tống trong sách (Đồng nhân du huyệt châm cứu đồ kinh) thì ghi huyệt trung phủ là huyệt khởi đầu của thủ thái âm phế kinh; từ dó đến đời Nguyên trong (Thập tứ kinh phát huy); đời Minh trong (Châm cứu tập anh), (Châm cứu đại thành). Đời nhà Thanh trong (Y tông kim giám) và tới các tài liệu đương đại thì cũng đều ghi huyệt trung phủ là huyệt khởi đầu của thủ thái âm phế kinh. Tại sao lại có sự khác biệt như vậy trong các y văn? Thực ra huyệt nào trung phủ hay vân môn mới là huyệt khởi đầu của kinh thủ thái âm?

Theo mô tả về đường đi của kinh thủ thái âm để phân tích thì sự tuần hành khí huyết trong kinh từ huyệt vân môn xuống huyệt trung phủ, sau đó đi men theo cánh tay mà đi xuống dưới thì sẽ hợp với quy luật vận hành khí huyết trong kinh mạch hơn là từ trung phủ sau đó lên vân môn rồi mới lại đi xuống cánh tay (xem hình).

 Đường đi của kinh thủ thái âm phế

Hơn nữa các y gia cổ đại khi đặt tên cho các huyệt thì đều có hàm ý. Môn (cửa) là chỗ mà khí xuất, nhập (ra, vào). Khí huyết của 12 kinh mạch tuần hành bắt đầu từ thủ thái âm phế kinh và kết thúc ở túc quyết âm can kinh và từ kinh can lại chuyển vào kinh phế để từ đó lại bắt đầu một vòng tuần hành mới không ngừng nghỉ. Từ thủ thái âm phế kinh khí bắt đầu khởi hành đi ra phần nông của thể biểu, như vậy gọi là “xuất” mà xuất (đi ra) thì phải có chỗ để đi ra tức là phải có “cửa” (môn). Chúng ta đều biết kinh phế là kinh khởi đầu của 12 kinh mạch, phế thuộc thượng tiêu, ở bên trên, chủ về khí, chỗ mạch khí đi ra (xuất) là vân khí. (Tố vấn. Âm dương ứng tượng đại luận) viết “Vân xuất thiên khí” vân môn là cửa của thiên khí xuất nhập (vào, ra). Còn túc quyết âm can kinh là kinh cuối cùng trong đường tuần hành khí huyết của 12 kinh mạch, huyệt cuối cùng của kinh này là huyệt kỳ môn, đến đó khí huyết của 12 kinh mạch hoàn thành một vòng tuần hành trong cơ thể. Từ kỳ môn kinh khí đi vào và quay về đổ vào thủ thái âm phế kinh. Các y gia xưa lấy chỗ kinh khí đi ra thể biểu của thủ thái âm phế gọi tên là vân môn và lấy chỗ kinh khí đi vào bên trong cơ thể của túc quyết âm can đặt tên là kỳ môn là có hàm ý vô cùng sâu sắc. Như vậy huyệt vân môn là huyệt khởi đầu của thủ thái âm phế kinh thì hợp lý hơn là huyệt trung phủ.

ThS.BS. Đào Hữu Minh – Trưởng khoa Khám bệnh