Điều trị bệnh bằng phương pháp châm cứu tức là người thầy thuốc dùng kim châm (kim hào châm, kim mai hoa, kim tam lăng…) hoặc ngải cứu tác động lên một số huyệt nhất định; Vì vậy việc chọn huyệt, chọn phương huyệt với hiệu quả điều trị có mối liên quan rất mật thiết. Trên lâm sàng sự phối hợp huyệt được dựa vào lý luận cơ bản của YHCT, dưới sự chỉ đạo của việc biện chứng luận trị, kết hợp với đặc điểm về công năng, đặc tính của huyệt mà tiến hành phối huyệt từ đó sẽ có phương pháp linh hoạt và đa biến.
- Các cách lấy huyệt: Trên lâm sàng các cách lấy huyệt, phối hợp huyệt đều dựa trên sự chỉ đạo của học thuyết kinh lạc, căn cứ vào biện chứng và lấy tuần kinh thủ huyệt làm chủ đạo, trong đó phân ra
– Lấy huyệt ở gần: Bệnh ở phần nào, bộ phận nào thì lấy huyệt ở đó hoặc lân cận đó.
– Lấy huyệt ở xa: Đó là lấy huyệt ở xa bộ phận, cơ quan bị bệnh.
– Tùy chứng lấy huyệt: tùy vào chứng trạng của bệnh tật mà lấy huyệt hoặc dựa vào bệnh nguyên, bệnh cơ mà lấy huyệt.
Trên đây là những nguyên tắc cơ bản của cách lấy và phối huyệt. Ba nguyên tắc này có thể dùng đơn độc hoặc phối hợp với nhau
1.1 Lấy huyệt ở gần: Dựa trên lý luận mỗi một huyệt ở chỗ bị bệnh hoặc huyệt lân cận vùng bị bệnh thì có thể điều trị bệnh ở vùng đó. Phương pháp này phần nhiều dùng để điều trị các chứng bệnh có phạm vi và giới hạn rõ ràng.
Ví dụ: Bệnh ở mũi dùng huyệt nghinh hương. Bệnh miệng méo lệch thì dùng huyệt địa thương, giáp xa. Bệnh đau dạ dày thì dùng huyệt trung quản, lương môn… Phương pháp lấy huyệt này được ứng dụng rộng rãi trên thực hành lâm sàng.
1.2 Lấy huyệt ở xa: Lấy huyệt ở xa nơi bị bệnh, cách lấy huyệt này dựa trên lý luận về học thuyết kinh lạc, tạng phủ và công năng tác dụng của huyệt vị.
Ví dụ: Ho, ho khạc ra máu dùng huyệt xích trạch, ngư tế. Đau lưng dùng huyệt ủy trung, côn lôn. Đau răng dùng huyệt hợp cốc. Trong khi ứng dụng cách lấy huyệt này có thể lấy huyệt trên kinh bị bệnh hoặc kinh có quan hệ biểu lý với kinh bị bệnh hoặc kinh khác
Ví dụ: Đau dạ dày dùng huyệt túc tam lý(kinh vị), công tôn(kinh tỳ), thái xung(kinh can), nội quan(kinh tâm bào).
1.3 Tùy chứng lấy huyệt: Còn gọi là đối chứng lấy huyệt, hay biện chứng lấy huyệt. Phương pháp này cũng căn cứ trên lý luận cơ bản của YHCT và công năng chủ trị của huyệt. Nó có một số khác biệt với phương pháp lấy huyệt ở gần và lấy huyệt ở xa đó là: Lấy huyệt ở gần và lấy huyệt ở xa đều căn cứ vào vị trí bị bệnh của bệnh nhân rồi lấy huyệt. Nhưng với những trường hợp như phát nhiệt, tự hãn, đạo hãn, hư thoát, thất miên, đa mộng…và những chứng bệnh của toàn thân thì cần áp dụng phương pháp tùy chứng lấy huyệt. Trên thực hành lâm sàng tùy thuộc vào chứng bệnh mà ta chọn các huyệt có tác dụng điều trị chứng bệnh ấy.
Ví dụ: Huyết hư hoặc chảy máu mạn tính dùng huyệt cách du. Các bệnh về cân dùng huyệt dương lăng tuyền. Các bệnh về khí dùng huyệt đản trung. Ngoại cảm phát nhiệt dùng huyệt đại trùy, hợp cốc, khúc trì để thanh nhiệt giải biểu. Bệnh nhân hôn mê, ngất xỉu dùng huyệt nhân trung, nội quan, tam âm giao để tỉnh thần khai khiếu. Bệnh âm hư phát nhiệt, đạo hãn dùng huyệt âm khích, phục lưu để ích âm thanh nhiệt chỉ hãn.
- Sự biến hóa của công thức huyệt: Trên ứng dụng lâm sàng, cùng một công thức huyệt nhưng sử dụng phương pháp bổ tả khác nhau, lưu kim thời gian dài ngắn khác nhau, độ châm nông sâu khác nhau sẽ dẫn tới tác dụng khác nhau.
2.1 Bổ – tả: Là phép cơ bản trong thực hành châm cứu. Phương pháp thao tác và tác dụng của nó tương phản nhau.
Ví dụ: Châm bổ huyệt hợp cốc, tả huyệt tam âm giao có tác dụng hành khí hoạt huyết, thông kinh hóa ứ dùng để điều trị các trường hợp huyết ứ. Ngược lại châm tả huyệt hợp cốc, bổ tam âm giao thì có tác dụng lý khí dưỡng huyết được dùng trong điều trị các trường hợp huyết hư chảy máu.
2.2 Chọn huyệt có chủ huyệt và thứ huyệt; Thao tác châm có trước có sau: Cũng như trong một phương thuốc có vị quân , thần, tá, sứ thì trong một công thức huyệt cũng có chủ huyệt và thứ huyệt; Khi tiến hành châm có huyệt châm trước có huyệt châm sau.
Ví dụ: Bệnh sinh ở trong thì trước trị âm, sau trị dương. Bệnh đau từ trên xuống dưới thì châm dưới sau trên trước. Trên lâm sàng thông thường thì châm trên trước dưới sau, tiền dương hậu âm.
2.3 Gia giảm huyệt: Ở cùng một công thức huyệt sự gia giảm một số huyệt nào đó không những làm ảnh hưởng tới kết quả điều trị mà còn có thể làm thay đổi tác dụng của công thức huyệt đó. Thông thường trong một công thức huyệt thì chủ huyệt không được thay đổi, chỉ có gia giảm những huyệt thứ.
Ví dụ: Huyệt hợp cốc là chủ huyệt của một công thức khi phối với huyệt khúc trì thì có tác dụng thông thượng tiêu; Nhưng khi phối với huyệt tam âm giao thì lại có tác dụng hành khí hoạt huyết điều kinh; Còn khi phối hợp với huyệt phục lưu thì lại có tác dụng phát hãn, chỉ hãn…
2.4 Chọn châm hay cứu: Châm và cứu là những phương pháp điều trị ngoài của YHCT, tác dụng của chúng không hoàn toàn giống nhau, trên lâm sàng ứng dụng cũng có sự khác nhau.
– Chứng thực nhiệt: Chỉ châm không cứu
– Chứng hư hàn: Cứu nhiều châm ít
2.5 Châm nông hay sâu: Độ châm nông – sâu có liên quan mật thiết tới kết quả điều trị. Trên lâm sàng các thầy thuốc phải căn cứ vào mùa, bệnh nguyên, thể chất người bệnh… Mà chọn độ châm nông hay sâu khác nhau.
Ví dụ: Mùa xuân, mùa hạ thì châm nông; Mùa thu đông thì châm sâu; Người già, gầy yếu thì châm nông, thanh niên khỏe mạnh người béo thì châm sâu.
ThS.BS. Đào Hữu Minh – Trưởng khoa Khám bệnh