Nói về công năng chủ trị của huyệt Huỳnh và huyệt Du, chúng ta thường nghe nói câu “Huỳnh Du trị ngoại kinh” tức là huyệt Huỳnh, Du chủ yếu điều trị bệnh ở kinh. Trong Linh khu có viết “Bệnh tại Âm chi âm giả, trị âm chi Huỳnh Du” vậy ” Âm chi âm” nghĩa là gì? Chúng ta lại thấy trong Linh khu có viết “Thị cố nội hữu âm dương, ngoại kỳ hữu âm dương. Tại nội giả, ngũ tạng vi âm, lục phủ vi dương, tại ngoại giả, cân cốt vi âm, bì phu vi dương…” (Phía trong con người có âm có dương, phía ngoài cũng có âm có dương, phía trong ngũ tạng thuộc âm lục phủ thuộc dương, ở phía ngoài cân cốt là âm, bì phu thuộc dương…) do vậy “âm chi âm” có thể được hiểu là “âm” thuộc về phía trong là âm, hoặc “âm” là chỉ ngũ tạng là âm, “âm chi âm” là chỉ ngũ tạng ở phía trong cơ thể. Như vậy có thể nói là bệnh tại ngũ tạng thì có thể dùng các huyệt Huỳnh và Du trên các kinh âm để điều trị. Có người sẽ thắc mắc là tại sao sách vừa nói là “Huỳnh Du trị ngoại kinh” lại cũng nói “Bệnh tại tạng thì dùng Huỳnh Du của Âm kinh để điều trị”? Như vậy có gì mâu thuẫn không? Xin thưa là không có gì mâu thuẫn ở hai câu trên cả. “Huỳnh Du trị ngoại kinh” đó là nói về kinh dương; còn “Bệnh tại Âm chi âm, trị âm chi Huỳnh Du” là chỉ về kinh âm. Huyệt Huỳnh Du của kinh âm và kinh dương có những công năng chủ trị không giống nhau; Huyệt Huỳnh Du của kinh dương chủ yếu để điều trị chứng bệnh ngoài kinh, còn Huỳnh Du của kinh âm thì chủ yếu để điều trị các bệnh của tạng phía trong. Vậy vì sao huyệt Huỳnh Du của kinh âm lại điều trị bệnh của ngũ tạng? Trước hết ngũ tạng thuộc về các kinh âm, như khi tạng phế có bệnh thì trước hết phải lấy huyệt trên kinh thủ thái âm phế đế điều trị vì kinh thủ thái âm thuộc tạng phế. Chúng ta cũng biết rằng các huyệt nguyên của ngũ tạng thì dùng để điều trị bệnh của ngũ tạng, mà ở các kinh âm thì huyệt du cũng là huyệt nguyên, do vậy dùng các huyệt du trên các kinh âm để điều trị bệnh của ngũ tạng là điều dễ hiểu. Bây giờ chúng ta nói về huyệt Huỳnh của kinh âm “Tỉnh, Huỳnh, Du, Kinh, Hợp” hợp thành ngũ du huyệt, trên kinh dương và kinh âm thì đặc tính của ngũ du huyệt không giống nhau. Từ huyệt Tỉnh đến huyệt Hợp thì trên kinh âm sẽ thuộc Mộc, Hoả, Thổ, Kim, Thủy; còn trên các kinh dương sẽ là Kim, Thủy, Mộc ,Hoả, Thổ. Thuộc tính này được nói đến trong Nạn kinh, nạn thứ 64: Âm tỉnh mộc, dương tỉnh kim, âm huỳnh hoả, dương huỳnh thủy, âm du thổ, dương du mộc, âm kinh Kim, dương kinh hoả, âm hợp thủy, dương hợp thổ; âm dương không giống nhau. Về tương sinh, tương khắc, bổ tả của ngũ du huyệt đều được dựa trên thuộc tính của ngũ du huyệt thuộc vào hành nào trong ngũ hành và quy luật “Hư thì bổ Mẹ, thực thì tả con” mà sử dụng huyệt. Ví như Kinh phế trong ngũ hành thuộc Kim, Thổ thì sinh Kim, thổ là mẹ của kim; do vậy khi phế bị bệnh thuộc về chứng hư thì ta sẽ lấy huyệt du là Thái Uyên trên kinh phế thuộc Thổ để điều trị… Huyệt Huỳnh trên kinh âm thuộc hỏa, cùng với dương khí của ngũ tạng có quan hệ rất mật thiết. Hoả thuộc dương, ngũ tạng thuộc âm; đó vậy chúng tòng dương khí của ngũ tạng nhập vào tay, như trong Nội kinh viết về “Tòng âm dẫn dương, tòng dương dẫn âm” nên khi dương khí của ngũ tạng có vấn đề thì ta sẽ lấy các huyệt Huỳnh thuộc Hỏa để điều trị.
ThS.BS. Đào Hữu Minh – Trưởng khoa Khám bệnh