Đại cương:
Nguyên tắc điều trị bệnh nói chung của YHCT và điều trị bằng phương pháp châm cứu nói riêng người thầy thuốc cần phải căn cứ vào sự phát triển, biến hóa của bệnh tật mà quyết định. Tính chất của bệnh tật vô cùng phức tạp, nghìn biến vạn hóa; Tuy vậy vẫn không vượt ra ngoài bát cương đó là: Âm-dương; Biểu-lý; Hư-thực;Hàn-nhiệt. Trong nguyên tắc điều trị bằng châm cứu thì khi:
– Tà khí thực sẽ dùng tả pháp (Tả tà khí thực)
– Chính khí hư (Không đầy đủ), thân thể hư nhược thì sẽ dùng bổ pháp (Bổ hư) làm cho chính khí đầy đủ lên.
– Nếu là nhiệt tà thì dùng phép châm nhanh và rút kim ngay hoặc châm xuất huyết để sơ tả thực nhiệt.
– Nếu tà quá mạnh, tạng phủ, kinh lạc, khí bị đình trệ thì dùng phép châm lưu kim nhằm mục đích làm cho dương khí đến để đuổi hàn tà, hoặc dùng phép cứu để trợ dương tán hàn.
– Nếu khí huyết ứ trệ làm tắc trở kinh lạc thì dùng phép châm xuất huyết để thông ứ trệ.
– Nếu dương khí bất túc (Không đầy đủ) làm cho mạch lạc bị hãm thì dùng phép cứu để thăng dương cử hãm.
– Trong thực hành lâm sàng khi dùng phương pháp châm cứu để điều trị bệnh người thầy thuốc cần căn cứ vào lý luận cơ bản của YHCT, vận dụng tứ chẩn cùng với các phương pháp khác để đưa ra bát cương từ đó mới quyết định được nguyên tắc điều trị. Sau đây sẽ bàn về những nguyên tắc điều trị cơ bản của châm cứu theo bát cương
- Âm – dương: Là hạch tâm của lý luận YHCT, là tổng cương của bát cương
– Bệnh ở biểu, phủ, thực, nhiệt thuộc dương
– Bệnh ở lý, tạng, hư, hàn thuộc âm
Trên lâm sàng dương chứng thường là thực nhiệt khi châm cứu dùng phép tả, hoặc châm nhanh và rút kim ngay, hoặc châm xuất huyết. Âm chứng phần nhiều là hư hàn khi điều trị thì dùng phép châm bổ và lưu kim hoặc dùng phép cứu. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong điều trị bệnh bằng châm cứu.
- Biểu – lý:
Thể hiện bệnh ở phần nông, sâu khác nhau của cơ thể; Căn cứ vào đó mà thầy thuốc quyết định châm nông hay sâu. Bệnh có thể ở tạng phủ, có thể ở kinh lạc, có thể ở da cơ, có thể ở cân cốt.
– Bệnh ở kinh lạc, da cơ thuộc biểu thì châm kim nông và rút nhanh
– Bệnh ở tạng phủ, cân cốt thuộc lý thì châm kim sâu và lưu kim
– Khi lục dâm phạm vào cơ thể gây ra biểu chứng thì khi châm sẽ dùng phép tả, cứu, hoặc châm kết hợp với cứu
– Khi bệnh tà chuyển vào lý, tạng phủ thì căn cứ vào tình hình mà có thể dùng phép châm hoặc cứu, bổ hay tả ,hoặc phối hợp giữa châm và cứu.
- Hàn – nhiệt:
Hàn – nhiệt là nói về tính chất của bệnh
– Hàn chứng: Cơ thể âm khí thịnh hoặc dương khí hư suy không có khả năng chống hàn tà mà từ đó sinh ra bệnh. Khi điều trị cần căn cứ vào hàn tà ở biểu hay lý, là hư hàn hay thực hàn mà dùng phép châm bổ lưu kim, phép cứu, hay phối hợp cả châm và cứu.
– Nhiệt chứng: Cơ thể dương khí thịnh, hoặc âm không đủ để chống lại nhiệt tà mà thành bệnh. Bệnh có thể gặp ở lục phủ, ngũ tạng, hoặc một kinh, hoặc toàn thân, cũng có thể là cục bộ; Có thể là biểu chứng, có thể là lý chứng. Khi điều trị thì đa phần sẽ dùng phép châm tả không lưu kim, hoặc châm chích nặn máu.
– Với các trường hợp hàn nhiệt thác tạp; Chân hàn giả nhiệt; Chân nhiệt giả hàn thì khi điều trị phải biện từng chứng một. Với chứng hàn nhiệt thác tạp thì dùng phép ôn thanh; Với chứng chân hàn giả nhiệt thì điều trị chứng hàn; Với chứng chân nhiệt giả hàn thì điều trị chứng nhiệt.
- Hư – thực:
Hư thực là chỉ tình trạng chính khí của cơ thể thịnh suy và bệnh tà tiêu trưởng.
– Hư: Là do chính khí không đầy đủ (chính khí hư) hay nói một cách khác đó là cơ thể âm dương, tạng phủ, kinh lạc, khí huyết không đầy đủ mà phát sinh bệnh. Khi châm thì dùng phép châm bổ hoặc châm kết hợp với cứu.
– Thực: Là do tà khí thực (tà khí vượng thắng) hoặc chức năng của cơ thể đề kháng quá mạnh. Nếu là tà khí thực khi điều trị dùng phép châm tả hoặc châm xuất huyết để tả tà khí thực, còn nếu là do cơ thể đề kháng quá mạnh thì dùng phép châm bình bổ bình tả.
– Hư trung hiệp thực, thực trung hiệp hư: Với những trường hợp này khi điều trị cần căn cứ vào sự nặng nhẹ của hư, thực mà dùng tiền bổ hậu tả hay tiền tả hậu bổ hoặc bổ tả kiêm trị.
ThS.BS. Đào Hữu Minh – Trưởng khoa Khám bệnh